Manh mún tái chế chất thải nhựa

Lĩnh vực tái chế chất thải nhựa ở Việt Nam vẫn chưa phát triển, tỷ lệ phân loại chất thải nhựa tại nguồn rất thấp...

Một người phụ nữ chở những chai nhựa thu lượm được để bán lại cho các cơ sở thu mua, tái chế hoặc tái sử dụng, và cũng có thể sẽ lại trở thành rác thải hủy hoại môi trường. Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN

Việc phát triển ngành nhựa ở Việt Nam cho đến nay vẫn chưa thật sự đồng bộ, chưa tương xứng là ngành công nghiệp phụ trợ thiết yếu trong quá trình phát triển kinh tế. Có tới 90% doanh nghiệp ngành nhựa không chủ động được nguồn nguyên liệu, vì nguồn trong nước chỉ đáp ứng được 15 - 20% và chủ yếu là tái sinh từ chất thải nhựa, còn hạt nhựa nguyên sinh phải nhập khẩu hoàn toàn. Mặt khác, công tác nghiên cứu vật liệu nhựa có khả năng phân hủy vẫn đang là giai đoạn khởi đầu.

Do đó cần thiết phải có các giải pháp quản lý tổng hợp từ chính sách, quy hoạch phát triển sản phẩm nhựa, giáo dục tuyên truyền giảm thiểu phát sinh chất thải, tăng cường tái sử dụng và tái chế chất thải nhựa. Các giải pháp công nghệ - kĩ thuật thân thiện môi trường trong tái chế tái sử dụng, hoặc tạo sản phẩm nhựa sinh học dễ phân hủy dùng trong đời sống là rất cần thiết, nên được khuyến khích, đầu tư tạo điều kiện để có được các kết quả áp dụng vào thực tế.

Tái chế còn manh mún

Theo báo cáo của Tổng cục Môi trường, Quyết định số 1292 ngày 1/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ về Kế hoạch hành động phát triển ngành công nghiệp môi trường và tiết kiệm năng lượng đến 2020 và hướng tới 2030, mục tiêu sẽ xây dựng nhà máy tái chế chất thải nhựa thành dầu nhiên liệu hoặc các sản phẩm khác. Đề án tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng túi nilon khó phân hủy trong sinh hoạt, cũng xác định phấn đấu tới 2020 thu gom và tái sử dụng 50% túi nilon khó phân hủy trong sinh hoạt.

Mục tiêu của hoạt động tái chế chất thải nhựa là phải tìm được cách sử dụng thứ cấp cho các loại nhựa được tái chế từ nhựa nguyên khai, ví dụ các thùng chứa, túi đựng đồ, đựng rác, copha xây dựng, bạt che mưa… sau tái chế có thể làm nguyên liệu cho sản phẩm như ban đầu.

Các chuyên gia Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam cho rằng: Lĩnh vực tái chế chất thải nhựa ở Việt Nam vẫn chưa phát triển, tỷ lệ phân loại chất thải nhựa tại nguồn rất thấp, chủ yếu dựa vào lực lượng thu mua phế liệu (đồng nát) và một số cơ sở xử lý chất thải rắn có công đoạn phân loại tách nhựa khỏi chất thải rắn. Cơ sở tái chế nhựa hiện nay chưa phát triển mạnh, bên cạnh một số nhà máy sản xuất quy mô trung bình rải rác ở một vài địa phương, hầu hết các cơ sở đều nhỏ lẻ, công nghệ thô sơ lạc hậu, chủ yếu tập trung tại các làng nghề nên hiệu quả thấp, giá thành rẻ, chất lượng không cao.

Với công nghệ tái chế nhỏ lẻ, công nghệ thô sơ lạc hậu nên hoạt động tái chế nhựa thường gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường không khí, nước và đất. Ví dụ điển hình như làng nghề tái chế nhựa Minh Khai (Văn Lâm-Hưng Yên) có 725 hộ sản xuất tái chế nhựa, với 6.400 lao động (2/3 là lao động ngoài làng). Hàng ngày sản xuất tái chế khoảng 600-650 tấn chất thải nhựa (tối đa 1.000 tấn/ngày, hầu hết phế liệu có nguồn gốc từ nước ngoài, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Hiện phát sinh 60-65 tấn chất thải rắn/ngày không thu gom xử lý, 7.000 m3/ngày nước thải chưa xử lý xả thải ra nguồn tiếp nhận. Khí thải và bụi phát sinh do làm nóng chảy đùn ép nhựa, bụi do quá trình vận chuyển bốc dỡ tạo nên mùi khét độc hại, mùi xú uế bao trùm làng nghề này.

Thực trạng nghiên cứu vật liệu nhựa có khả năng phân hủy

Ở Việt Nam việc nghiên cứu cũng như sử dụng các sản phẩm polyme có khả năng phân hủy đã được bắt đầu vào những năm 2000. Tuy vậy, các sản phẩm này chỉ có khả năng phân hủy một phần do được chế tạo từ việc kết hợp các polyme dùng làm bao bì truyền thống như PE, hầu như không phân hủy, với tinh bột và một số tác nhân phân hủy quang (oxo-degradable).

Tiêu biểu là đề tài khoa học cấp nhà nước KC-02-09 /05-10 “Chế tạo và ứng dụng polyme phân hủy sinh học”. Nhưng theo tác giả của đề tài thì quá trình phân hủy các sản phẩm này sau thời gian sử dụng chỉ dừng ở mức độ đứt mạch hydrocacbon, sản phẩm phân hủy thành dạng mảnh vụn (phân hủy thế hệ 1), hoặc dưới dạng bột mịn (phân hủy thế hệ 2), song xét về mặt hóa học thì chưa thể coi là phân hủy hoàn toàn đến CO2, nước và các phân tử sinh khối tự nhiên.

Ngoài ra còn có nghiên cứu của nhóm nghiên cứu thuộc Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), với định hướng sử dụng hỗn hợp tinh bột nhiệt dẻo và nhựa PVA có sự hiện diện của khoáng sét nontmorillonite phân tán ở kích thước nanomét, cùng một số phụ gia biến tính để làm ra sản phẩm bao bì có khả năng phân hủy sinh học hoàn toàn và nhanh chóng, không gây ô nhiễm môi trường. PVA cũng là một trong số ít polyme có khả năng tự phân hủy sinh học thực sự trong môi trường đất tạo thành nước và CO2. Nhưng cả PVA và tinh bột đều là những polyme rất nhạy cảm với sự thay đổi của môi trường xung quanh, bởi vậy sản phẩm có độ ổn định chưa cao.

Hiện trên thị trường Việt Nam, 100% túi ni lông gắn mác tự phân hủy, được sản xuất theo công nghệ sử dụng tác nhân phân hủy quang (oxo-degradable plastics). Sau thời gian phân hủy, các loại màng, túi này thường chỉ bị vỡ vụn thành các mảnh nhỏ nhờ phần tinh bột bị phân hủy hoặc do tác nhân phân hủy quang, phần còn lại vẫn là các polyme khó phân hủy như PE và do vậy các mảnh vật liệu này tuy có kích thước rất nhỏ nhưng vẫn có tác động xấu tới môi trường đất cũng như không khí. Việt Nam trong tương lai gần cũng sẽ không thể nằm ngoài xu thế chung của thế giới là cấm sử dụng và tiêu thụ túi ni lông có tác nhân phân hủy quang và chuyển sang sử dụng các loại túi ni lông chế tạo từ nhựa có khả năng phân hủy sinh học hoàn toàn.

Cho tới thời điểm hiện tại, trong nước vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về nhựa có khả năng phân hủy hoàn toàn trên cơ sở tinh bột, đồng thời căn cứ vào định hướng phát triển khoa học công nghệ bền vững, giảm thiểu tối đa các hoạt động gây hại tới môi trường sống của nước ta cũng như toàn cầu. Mục tiêu cần đặt ra là cần tập trung nghiên cứu chế tạo các loại vật liệu chất dẻo có khả năng phân hủy sinh học hoàn toàn từ blend của polyme poly(butyrate adipate terephthalatte) PBAT, với một polyme thiên nhiên sẵn có trong nước là tinh bột sắn, ứng dụng trong chế tạo các sản phẩm bao bì dân dụng và phục vụ nông nghiệp.

Phòng thí nghiệm trọng điểm vật liệu Polyme và Compozit (Đại học Bách khoa Hà Nội), trong 15 năm trở lại đây cũng đã có các công trình nghiên cứu về chế tạo polymer tự phân hủy trên cơ sở tinh bột sắn và thu được một số kết quả khả quan, có khả năng ứng dụng trong chế tạo các blend cũng như compozit tự phân hủy. Đã làm chủ được công nghệ chế tạo các thành phần chính của bao bì phân huỷ là tinh bột nhiệt dẻo, một số loại nhựa phân huỷ, chất tăng liên kết. Các lĩnh vực compound có thể được ứng dụng như túi phân huỷ sinh học, cốc chén dùng một lần, màng bảo vệ cây trồng, bầu ươm cây, sản phẩm công nghệ cao có khả năng phân huỷ như vỏ điện thoại, dụng cụ y tế…

TTXVN